ĐẶT VẤN ĐỀ
Rượu là
một chất tác động tâm thần. Rượu gây các bệnh cơ thể, bệnh tâm thần, ảnh hưởng
tới đời sống kinh tế, phá hoại đời sống hạnh phúc gia đình và an sinh xã hội. Theo
thống kê, rượu bia là đứng
hàng thứ 5 trong số 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất trên toàn cầu. Chi phí
do lạm dụng rượu bia cũng tạo gánh nặng cho nền kinh tế, nhất là ở các nước
đang phát triển. Ước tính, chi phí cho rượu, bia và
giải quyết hậu quả tác hại của rượu, bia chiếm 2 - 8% GDP quốc gia [12].
Sảng rượu (SR) là một trạng
thái bệnh lý hay gặp nhất của rối loạn tâm thần do rượu (khoảng 70% số bệnh
nhân), xuất hiện trên một bệnh nhân có tiền sử nghiện rượu (NR) mạn tính từ 5
năm trở lên khi dừng hoặc giảm lượng rượu uống hoặc uống với số lượng rượu lớn. Sảng rượu có thể
diễn ra đột ngột, nhưng thường điển hình sau 02 đến 04 ngày dừng sử dụng rượu. Sảng rượu là một trạng thái biến chứng do
ngộ độc rượu kéo dài dẫn đến loạn thần nặng, nếu không được chẩn đoán đúng,
điều trị kịp thời, chăm sóc tốt có thể dẫn đến tử vong (khoảng 15 - 20 %). Sảng rượu là một
cấp cứu tâm thần, đòi hỏi phải chẩn đoán chính xác, điều trị tích cực và công
tác chăm sóc của điều dưỡng chuyên biệt riêng. Việc điều trị-chăm sóc tốt, phù
hợp làm giảm nguy cơ kích động, hoảng sợ... ở
sảng rượu người bệnh. Để có thể điều trị-chăm sóc tốt người bệnh sảng
rượu, cần phải nhận rõ những đặc điểm riêng, khác biệt của bệnh lý này.
Hiện nay ở Quảng Ninh chưa có tác giả nào nghiên cứu một
cách có hệ thống về đặc điểm lâm sàng và đánh giá đáp ứng điều trị của sảng
rượu với các thuốc an thần kinh, giải lo âu. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài “Nhận xét đặc điểm lâm sàng và kết quả
điều trị của sảng rượu tại Bệnh viện bảo vệ sức khỏe tâm thần”. Đề tài nghiên cứu này góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc chẩn
đoán, điều trị và chăm sóc bệnh nhân nghiện rượu. Các mục tiêu nghiên cứu của đề tài bao gồm:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng
của sảng rượu
2. Các yếu tố liên quan đến
sảng rượu
3. Nhận xét kết quả điều trị
của sảng rượu
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái
niệm sảng rượu.
Sảng rượu là một rối loạn loạn thần cấp tính xuất hiện ở những bệnh
nhân NR mạn tính trên 10 năm (giai đoạn 2) sau khi uống một lượng rượu lớn hoặc
ngừng uống rượu đột ngột 1 dến 3 ngày (cai rượu). Sảng rượu là một cấp cứu tâm
thần, nếu không được điều trị tỉ lệ tử vong là 20%. Các nhân tố thuận lợi là
viêm phổi, suy thận, suy gan, suy tim, bệnh tiêu hoá....
1.2. Chẩn đoán sảng rượu.
Chẩn đoán sảng rượu căn cứ vào các triệu chứng sau:
- Xuất hiện trên người bệnh nghiện rượu mạn tính, sau khi dừng hoặc
giảm lượng rượu uống, hoặc có bệnh nội khoa kèm theo.
- Rối loạn ý thức kiểu sảng hoặc lú lẫn.
- Ảo giác, hoang tưởng cấp, thường là ảo thị, ảo giác xúc giác với
nội dung ghê sợ và khó chịu, hoang tưởng bị hại, bị truy hại hay hoang tưởng
theo dõi.
- Rối loạn thần kinh và thần kinh thực vật: run, vã mồ hôi, mạch
nhanh…
- Rối loạn điện giải và chuyển hóa.
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán quốc tế về các rối loạn tâm thần và hành
vi lần thứ 10 (ICD 10), sảng rượu được chẩn đoán ở hai mã:
F10.40: sảng rượu không có co giật
F10.41: sảng rượu có co giật
1.3. Cơ chế
bệnh sinh
Aminobutiric acid (GABA) là chất ức chế dẫn truyền TK chính trong hệ
TKTW, trong ngộ độc rượu mạn, các receptor của nó giảm hoạt động.
Sau khi ngưng rượu, sự giảm điều hoà
receptor hệ GABA tham gia gây ra rất nhiều triệu chứng của hội chứng cai. Ngộ
độc rượu mạn cũng ức chế hoạt động dẫn truyền TK glutamate, chất kích thích dẫn
truyền TK chính trong hệ TKTW bằng cách tác động lên cổng ion N-methyl-D-aspartate
(NMDA) . Ngược lại ngừng rượu sẽ gây ra ức chế receptor NMDA gây ra rất nhiều
dấu hiệu của hội chứng cai.
Những
cơ chế khác cũng là các kích thích trong cai rượu. Có sự tăng dẫn truyền
dopaminergic - mà có thể là nguyên nhân gây hoang
tưởng. Tăng dẫn truyền noradrenergic có thể tham gia làm giảm các hoạt động quá
ngưỡng. Hoạt động của trục dưới đồi - ttuyến yên - thượng thận làm tăng tiết
cortisol,…
1.4. Các
triệu chứng lâm sàng và nguy cơ ở người bệnh sảng rượu.
1.4.1. Rối loạn ý thức
Rối loạn ý thức là triệu chứng cơ bản để chẩn đoán sảng rượu, có thể
rối loạn ý thức kiểu sảng hoặc rối loạn ý thức kiểu lú lẫn. Với các biểu hiện:
- Ý thức u ám.
- Nhận thức, phán đoán sai lầm.
- Rối loạn định hướng, nhất là định hướng không gian và thời gian.
- Quên các sự kiện mới, lỗ hổng trí nhớ (xác định sau cơn).
1.4.2. Ảo giác – hoang tưởng
+ Ảo giác:
Ảo thị (khoảng 80% số trường hợp) với nội
dung rùng rợn: nhìn thấy ma quỷ, rắn, rết... với phản ứng lo âu mãnh liệt. Ảo
giác xúc giác, thường là các con vật nhỏ (côn trùng…); biểu hiện: người bệnh tìm kiếm trên cơ thể để
đánh.
+ Hoang tưởng:
Hoang tưởng thường gặp là hoang tưởng bị
hại hoặc bị truy hại, hoang tưởng bị theo dõi.
Các ảo giác mang nội dung rùng rợn, khó
chịu, ghê sợ, các hoang tưởng mang tính truy hại, đe dọa cùng với rối loạn ý
thức là nguyên nhân gây tình trạng phản ứng lo âu, hoảng sợ của người bệnh.
1.4.3. Rối loạn cảm xúc:
Tình trạng rối loạn cảm xúc chủ yếu ở
người bệnh sảng rượu là tình trạng lo âu, cơn hoảng sợ, cảm xúc không ổn định
dễ cáu giận, tình trạng này thường gặp ở những ngày đầu vào viện, giai đoạn sau
là tình trạng lo âu lan tỏa và trầm cảm. Tình trạng lo âu, hoảng sợ thường nặng
lên về chiều tối và đêm, khi điều kiện tri giác bị hạn chế ảo giác, rối loạn ý
thức nặng lên làm tình trạng lo âu và phản ứng hoảng sợ tăng lên.
Chính vì tình trạng lo âu, hoảng sợ tăng
về chiều tối và đêm, do điều kiện tri giác bị hạn chế, nên cần phải cho người
bệnh ở nơi yên tĩnh, đủ ánh sáng và thường xuyên có người bên cạnh.
1.4.4. Kích động dữ dội:
“Hoang tưởng trong mê sảng và kích động”,
người bệnh la hét, đập phá, có những hành vi nguy hiểm, hoạt động tự động hoặc
kích động hỗn loạn, trong tình trạng hoảng sợ. Tăng về chiều tối và đêm. Thường
là kích động phản ứng do ảo giác và hoang tưởng chi phối. Người bệnh trong tình
trạng hoảng sợ mãnh liệt.
1.4.5. Dấu hiệu thần kinh:
+ Run rõ, mạnh, nhiều ở đầu chi, môi và
lưỡi. Chứng loạn vận ngôn.
+ Rối loạn cân bằng, đi lảo đảo, ngã
thường xuyên, mất phối hợp vận động.
+ Trong những trường hợp nặng: rối loạn hoạt động nuốt, tăng trương
lực cơ gấp. Tình trạng này rất nguy hiểm có thể gây sặc và suy hô hấp do sặc
thức ăn
1.4.6. Dấu hiệu toàn thân:
- Sốt liên tục.
- Tăng tiết mồ hôi.
- Rối loạn nước-điện giải: thiểu niệu, tim
nhanh, giảm huyết áp động mạch.
- Đôi khi ỉa chảy hoặc nôn.
1.4.7. Tiến triển:
- Tiến triển thuận lợi dưới điều trị.
- Không điều trị: tiến triển không tránh được dẫn
đến tình trạng suy sụp, hôn mê gan, rối loạn chuyển hóa… và cuối cùng là tử
vong.
1.5. Điều trị sảng rượu.
Sảng rượu là một cấp cứu tâm thần cần được điều trị và
chăm sóc chuyên biệt. Điều trị sảng rượu chủ yếu trên các việc sau :
- Giải lo âu, an thần kinh.
- Bù nước và điện giải theo đường tĩnh mạch và đường
uống.
- Vitamin nhóm B liều cao, nhất là Vitamin B1.
Điều trị các rối loạn kết hợp.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1.Địa
điểm nghiên cứu:
Bệnh
viện Bảo vệ Sức khỏe tâm thần Quảng Ninh.
2.2.
Thời gian nghiên cứu:
tháng 4/2013 – tháng 10/2013.
2.3.
Đối tượng nghiên cứu:
Gồm 46 bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Bảo
vệ sức khỏe Tâm thần được chẩn đoán là sảng rượu (trạng thái cai rượu với mê
sảng F10.4)
* Cỡ mẫu nghiên cứu
Được tính theo công thức sau:
- n: cỡ mẫu nghiên cứu
- Z(1- α/2) =1,96 ( hệ số tin cậy ở mức xác suất 95%, α =
0,05)
- p: = 0,8 (tỷ lệ bệnh nhân sảng rượu có ảo giác
thị giác, khoảng 80%)
- d: khoảng sai
lệnh mong muốn (0,115)
Cỡ mẫu trong
nghiên cứu là khoảng 46 bệnh nhân.
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa
chọn bệnh nhân:
Tất
cả các bệnh nhân được chẩn đoán là sảng rượu (trạng thái cai rượu với mê sảng-F10.4)
theo tiêu chuẩn của ICD – 10.
2.3.2. Tiêu chuẩn loại
trừ:
Loại
trừ những bệnh nhân có chẩn đoán rối loạn tâm thần khác.
2.4.
Phương pháp thu thập thông tin
2.4.1. Công cụ nghiên cứu
Bệnh
án chuyên biệt dùng để nghiên cứu trạng thái cai rượu với mê sảng.
Tiêu chuẩn chẩn đoán ICD-10 của Tổ chức Y tế Thế giới.
2.4.2. Kỹ thuật thu thập
thông tin
- Tất cả đối
tượng nghiên cứu đều được làm bệnh án theo mẫu nghiên cứu và nguồn thông tin
được khai thác thống nhất từ:
+ Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân
trong quá trình điều trị tại bệnh viện.
+ Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân
và những nhà biết rõ quá trình bệnh của bệnh nhân.
+ Tham khảo giấy tờ, tài liệu
liên quan quá trình theo dõi và điều trị cho bệnh nhân do gia đình, y tế cơ
sở….cung cấp.
+ Khám tâm thần, thần kinh và
các bệnh lý nội tổng quát…
- Sau khi thu
thập thông tin sẽ nhập số liệu vào phần mềm thống kê Y học.
2.4.3. Cách tiến hành
Các bệnh nhân được hỏi bệnh, khám
bệnh, làm bệnh án theo một mẫu thống nhất. Bệnh nhân được theo dõi diễn biến
của bệnh liên tục trong quá trình nghiên cứu.
Các xét nghiệm cận lâm sàng do kỹ
thuật viên có kinh nghiệm tiến hành theo một mẫu thống nhất.
Cách ghi chép mẫu biểu, phân tích và
xử lý số liệu theo một quy trình và
phương pháp thống nhất.
2.4.4. Các chỉ số và
biến cần theo dõi:
+ Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu
- Giới tính.
- Hôn nhân.
- Nghề nghiệp.
- Phân bố tuổi nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Đặc điểm sử dụng rượu: thời gian nghiện rượu,
loại rượu thường dùng....
+ Đặc điểm
lâm sàng nhóm bệnh nhân nghiên cứu:
- Phân bố các thể lâm sàng.
- Tính chất khởi phát của sảng rượu.
- Tình trạng rối
loạn ý thức: đánh giá sự sáng sủa của năng lực định hướng về thời gian, không
gian, bản thân và xung quanh. Thời gian rối loạn ý thức trong ngày: sáng, trưa,
chiều, tối xảy ra liên tục hay không liên tục.
- Rối loạn cảm
xúc: nhận xét các biểu hiện trạng thái lo âu, hưng cảm, trầm cảm, loạn cảm, cảm
xúc không ổn định….
- Rối loạn tri
giác: nhận xét các biểu hiện rối loạn tri giác ở bệnh nhân như : loại ảo giác,
ảo tưởng, loạn cảm giác bản thể, tri giác sai thực tại….
- Rối loạn tư
duy: thống kê, nhận xét, phân tích các triệu chứng về rối loạn tư duy (các loại
hoang tưởng, nội dung và tính chất của hoang tưởng).
- Ảo giác có kết
hợp với hoang tưởng trong bệnh cảnh sảng rượu
- Về triệu chứng
rối loạn cơ thể: mất ngủ, đau đầu, chán ăn….
- Về triệu chứng
rối loạn thần kinh thực vật: run, toát mồ hôi, nhịp tim nhanh hay chậm, huyết
áp: tăng, giảm hay dao động; nhiệt độ cơ thể tăng hoặc giảm.
- Các bệnh có
thể kèm theo.
+ Các yếu tố liên quan
đến bệnh
- Đặc điểm các yếu tố thúc đẩy khởi phát bệnh
- Tiền sử cá nhân, tiền sử gia đình
+ Nhận xét điều trị:
Theo điểm đánh giá, thời gian thuyên
giảm triệu chứng…
2.5. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được phân tích và xử
lý bằng phân mềm SPSS 15.0.
2.6.
Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu
Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân được giải thích
rõ mục tiêu, phương pháp nghiên cứu và đồng ý tự nguyện tham gia vào nghiên
cứu.
Mọi
thông tin do bệnh nhân và thân nhân cung cấp đều được giữ bí mật;
Nghiên cứu được sự đồng ý của các cơ
quan có thẩm quyền.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1.
Đặc điểm chung
3.1.1. Đặc điểm giới tính
Biểu
đồ 3.1: Đặc điểm về giới tính
3.1.2. Đặc điểm về tình trạng hôn nhân
Bảng 3.1: Đặc điểm về tình trạng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Độc thân
|
8
|
17,4
|
Có vợ,
chồng
|
33
|
71,7
|
Ly hôn,
ly thân
|
5
|
10,9
|
Tổng
|
46
|
100
|
3.1.3. Đặc điểm về nghề nghiệp
Biểu đồ 3.2: Đặc điểm về nghề nghiệp
3.1.4. Đặc điểm về lứa tuổi
Bảng 3.2: Đặc điểm về lứa tuổi của đối tượng nghiên
cứu
Lứa tuổi
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
P
|
£ 30
|
2
|
4,4
|
<
0,05
|
31
– 40
|
14
|
30,4
|
41
– 50
|
23
|
50
|
51
– 60
|
6
|
13
|
>
60
|
1
|
2,2
|
Cộng
|
46
|
100
|
|
3.1.5. Thời gian nghiện rượu
Bảng 3.3: Thời gian nghiện rượu của nhóm đối
tượng nghiên cứu
Thời gian NR
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Trung bình
|
<
5 năm
|
2
|
4,4
|
12,7
± 4,4
|
5
- 10 năm
|
17
|
36,9
|
11
– 15 năm
|
19
|
41,3
|
15
– 20 năm
|
8
|
17,4
|
>
20 năm
|
0
|
0
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.1.6. Số lượng rượu uống hàng ngày
Bảng 3.4: Số lượng rượu uống hàng ngày của đối
tượng nghiên cứu
Bệnh nhân
Số
lượng rượu
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
≤
500 ml
|
11
|
23,9
|
600
– 1000 ml
|
20
|
43,5
|
1100
– 1500 ml
|
12
|
26,1
|
>
1500 ml
|
3
|
6,5
|
Tổng
|
46
|
100
|
3.2.
Đặc điểm lâm sàng
3.2.1. Thể lâm sàng của sảng rượu
Biểu đồ 3.3: Thể lâm sàng của sảng rượu
3.2.2. Các triệu chứng về ý thức
Bảng
3.5: Các triệu chứng rối loạn năng lực định hướng
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
RLĐH thời gian
|
34
|
73,9
|
RLĐH không
gian
|
31
|
67,4
|
RLĐH bản thân
|
12
|
26,1 |
Bảng 3.6: Thời gian rối loạn ý
thức
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Buổi sáng
|
5
|
10,9
|
Buổi trưa
|
8
|
17,4
|
Buổi chiều,
tối
|
10
|
21,7
|
Cả ngày
|
23
|
50
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.2.3. Các triệu chứng rối loạn cảm xúc
Bảng 3.7: Đặc điểm rối loạn cảm xúc
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Khí sắc
tăng
|
19
|
41,3
|
Khí sắc giảm
|
4
|
8,7
|
Cảm xúc
không ổn định
|
14
|
30,4
|
Lo âu,
hoảng sợ
|
5
|
10,8
|
Loại
khác
|
4
|
8,7
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.2.4. Các triệu chứng rối loạn tri giác
Bảng 3.8: Phân bố ảo giác
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
p
|
Ảo giác thính
giác
|
20
|
44,4
|
<
0,05
|
Ảo giác thị
giác
|
30
|
65,2
|
Ảo giác xúc
giác
|
14
|
30,4
|
Ảo giác vị
giác
|
2
|
4,3
|
Bảng 3.9: Số lượng ảo giác của
nhóm nghiên cứu
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
p
|
Không có ảo
giác
|
0
|
0
|
<
0,05
|
Có 1 ảo giác
|
26
|
56,5
|
Có 2 ảo giác
|
20
|
43,5
|
Có ≥ 3 ảo giác
|
0
|
0
|
Cộng
|
46
|
100
|
Bảng 3.10: Thời gian xuất hiện ảo
giác
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Buổi sáng
|
2
|
4,3
|
Buổi trưa
|
4
|
8,7
|
Buổi chiều,
tối
|
12
|
26,1
|
Cả ngày
|
28
|
60,9
|
Cộng
|
46
|
100
|
Bảng 3.11: Sự chi phối của ảo
giác
Sự chi phối
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Cảm xúc
|
11
|
23,9
|
Hành vi
|
20
|
43,5
|
Cảm xúc
và hành vi
|
12
|
26,1
|
Không
chi phối
|
3
|
6,5
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.2.5. Các triệu chứng rối loạn tư duy
Bảng 3.12: Phân bố hoang tưởng
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
HT bị hại
|
26
|
56,5
|
HT ghen tuông
|
2
|
4,3
|
HT liên hệ
|
2
|
4,3
|
HT tự cao
|
4
|
8,7
|
HT khác
|
3
|
6,5
|
Không có HT
|
9
|
19,6
|
Cộng
|
46
|
100
|
Bảng 3.13: Sự chi phối của hoang
tưởng
Sự chi phối
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Cảm xúc
|
5
|
10,9
|
Hành vi
|
13
|
28,3
|
Cảm xúc
và hành vi
|
21
|
45,6
|
Không
chi phối
|
7
|
15,2
|
Cộng
|
46
|
100
|
Bảng 3.14: Phân bố HT và ảo giác theo thể lâm sàng
Phân bố HT, AG
Thể lâm sàng
|
AG
đơn thuần
|
HT + AG
|
Tổng
|
Co giật
|
2
|
14
|
16
|
Không co giật
|
7
|
23
|
30
|
Tổng
|
9
|
37
|
46
|
3.2.6. Các triệu chứng về rối loạn thần kinh thực vật
Biểu đồ 3.4: Các triệu
chứng về rối loạn thần kinh thực vật
3.2.7. Các triệu chứng về cơ thể
Bảng 3.15: Đặc điểm các triệu
chứng về cơ thể
Triệu chứng
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Cảm giác khó ở hoặc mệt mỏi
|
19
|
41,3
|
Đau đầu
|
16
|
34,8
|
Mất ngủ
|
44
|
100
|
Thèm rượu
|
22
|
47,8
|
Tăng trương lực cơ
|
25
|
54,3
|
3.2.8. Các triệu chứng rối loạn hoạt động
Bảng 3.16: Đặc điểm rối loạn hoạt động
Triệu chứng
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Chạy trốn, nấp
|
26
|
56,5
|
Bắt, suổi sâu bọ…
|
15
|
32,6
|
Kích động
|
21
|
45,6
|
Lần sờ đồ đạc
|
12
|
26
|
Hành vi tự sát
|
2
|
4,3
|
3.2.9.
Các triệu chứng rối loạn trí nhớ và chú ý
Bảng 3.17: Đặc điểm rối loạn trí
nhớ và chú ý
Triệu chứng
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Giảm trí
nhớ
|
25
|
54,3
|
Loạn nhớ
|
2
|
4,3
|
Quên
thuận chiều
|
9
|
19,6
|
Giảm tập trung chú ý
|
37
|
80,4
|
3.2.10. Các bệnh cơ thể mạn tính kèm theo
Bảng 3.18: Các bệnh cơ thể mạn
tính kèm theo
Triệu chứng
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Bệnh lý gan mật
|
15
|
32,6
|
Bệnh lý dạ dày-ruột
|
3
|
6,5
|
Bệnh lý nội tiết
|
2
|
4,3
|
Bệnh lý tim mạch
|
4
|
8,7
|
Bệnh lý cơ xương khớp
|
2
|
4,3
|
Không có bệnh cơ thể
|
22
|
47,8
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.3.
Các yếu tố liên quan đến sảng rượu của nhóm nghiên cứu:
3.3.1. Các yếu tố khởi phát sảng rượu
Bảng 3.19: Các yếu tố khởi phát sảng rượu
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
p
|
Uống tăng lượng
rượu
|
6
|
13,0
|
<
0,05
|
Uống giảm
lượng rượu
|
11
|
23,9
|
Ngừng uống
rượu
|
24
|
52,2
|
Bị bệnh thể
chất
|
5
|
10,9
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.3.2. Thời gian xuất hiện sảng rượu
Bảng 3.20: Thời gian xuất hiện sảng rượu
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
p
|
≤
24h
|
6
|
13,0
|
<
0,05
|
24
- 48h
|
16
|
34,8
|
>
48h
|
24
|
52,2
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.3.3. Tính chất khởi phát
Bảng 3.21: Tính chất khởi phát
Tính chất khởi phát
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Cấp tính
|
10
|
21,7
|
Bán cấp
|
10
|
21,7
|
Từ từ
|
26
|
56,5
|
Tổng
|
46
|
100
|
3.3.3. Yếu
tố tiền sử
3.3.3.1. Tiền sử bản thân
Bảng 3.22: Số lần vào viện điều
trị RLTT do rượu
Số lần vào viện
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Chưa lần nào
|
20
|
43,5
|
1 - 2 lần
|
17
|
37
|
≥ 3 lần
|
9
|
19,5
|
Cộng
|
46
|
100
|
3.3.3.1. Tiền sử gia đình
Bảng
3.23: Đặc điểm tiền sử gia đình
Tiền sử gia đình (TSGĐ)
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Có TSGĐ:
- Nghiện rượu
- Rối loạn tâm thần khác
|
13
9
4
|
28,3
19,6
8,7
|
Không có TSGĐ
|
33
|
71,7
|
3.4.
Nhận xét quá trình điều trị
3.4.1. Các thuốc điều trị
Bảng 3.24: Các loại thuốc dùng
điều trị sảng rượu của nhóm nghiên cứu
Loại thuốc
|
Số bệnh nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
Diazepam
|
46
|
100
|
Haloperidol
|
40
|
86,9
|
Risperidon
|
4
|
8,7
|
Valproat
|
31
|
67,4
|
Vitamin B1
|
46
|
100
|
Dung dịch truyền
|
34
|
73,9
|
Orezol
|
12
|
20,1
|
Piracetam
|
18
|
39,1
|
Bảng 3.25: Liều lượng trung bình của các thuốc điều trị
Loại thuốc
|
Liều lượng trung bình/ngày
|
Diazepam
|
16,2 ± 3,5 mg
|
Haloperidol
|
13,7 ± 2,1 mg
|
Risperidon
|
4,1 ± 1,5 mg
|
Valproat
|
738 ± 58,3 mg
|
Vitamin B1
|
340,5 ± 32,6 mg
|
3.4.2. Thời gian điều trị
Bảng 3.26: Thời gian điều trị ở
bệnh nhân sảng rượu
Bệnh nhân
Thời gian
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
≤ 7 ngày
|
13
|
28,3
|
8 - 14 ngày
|
21
|
45,6
|
≥ 15 ngày
|
12
|
20,1
|
Trung bình (ngày)
|
14,4 ± 1,9
|
Cộng
|
46
|
100,00
|
3.4.3. Tính chất thuyên giảm
Bảng 3.27: Tính chất thuyên giảm của sảng rượu
Triệu chứng
|
Số bệnh
nhân (n)
|
Tỷ lệ (%)
|
p
|
Nhanh
|
26
|
56,5
|
<
0,05
|
Từ từ
|
18
|
39,2
|
Không xác định
|
2
|
4,3
|
Cộng
|
46
|
46
|
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1.
Đặc điểm chung
4.1.1. Đặc điểm giới tính
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100%
số bệnh nhân là nam giới, không có bệnh nhân nào là nữ. Kết quả này cũng tương
tự như các nghiên cứu về rượu thời gian gần đây ở Việt Nam. Nghiên cứu
của Nguyễn Viết Thiêm (1994), của Quách Văn Ngư (1998) và Nguyễn Mạnh Hùng
(2008) về sảng rượu cho thấy tất cả các bệnh nhân đều là nam giới [5],[3]. Nghiên cứu của Kufner
H. (Đức, 2000) thấy tỷ lệ nữ bị sảng rượu là 9,8% [18]. Nghiên cứu trên
2417 bệnh nhân sảng rượu, Dvirski A.A. (1999) thấy sảng rượu thường xảy ra ở
nam giới (84,2%), so với ở nữ giới (15,8%) [15].
Tuy nhiên
hiện nay cũng có một số lượng nữ giới lạm dụng rượu và có biểu hiện của lệ
thuộc rượu nhưng chưa đến cơ sở y tế để được tư vấn và chữa trị. Qua điều tra của Viện nghiên cứu và Chính sách y tế Việt Nam về sức khoẻ
vị thành niên và thanh niên (từ 14 - 15 tuổi) cho thấy: 69% nam và 28% nữ đã
từng uống bia, rượu [12].
4.1.2. Đặc điểm
về tình trạng hôn nhân
Kết quả nghiên cứu
cho thấy, có 33 trường hợp chiếm 71,7% có gia đình (vợ, chồng), 5 trường hợp
(10,9%) đã ly hôn, ly thân và 17,4% là chưa kết hôn. Điều này cũng phù hợp với
lứa tuổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
4.1.3. Đặc điểm
về nghề nghiệp
Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy nghề nghiệp của đa số bệnh nhân là không có nghề nghiệp (thất
nghiệp) chiếm 43,5 %, nghề tự do là
21,7%, công nhân 19,6%, nông dân 13% và viên chức 2,2%. Kết quả này phần nào
phù hợp với nghiên cứu của Lý Trần Tình (năm 2006) ở bệnh nhân loạn thần do
rượu thấy công nhân chiếm tỷ lệ 34,4%, nông dân 32,3%, công chức viên chức 6,3%
và những nghề tự do là 27,1% [8].
Nghiên cứu của F. Sottle (Pháp) cho
thấy có 3 loại nghề liên quan đặc biệt đến nghiện rượu: nông dân, công nhân,
lao động phổ thông.
Khi tìm hiểu về nhóm bệnh nhân nghiên cứu,
đa số trước đây họ đều có nghề nghiệp ổn định như nông dân, công nhân. Nhưng
khi nghiện rượu, họ đều không tham gia lao động được hoặc làm việc không hiệu
quả. Nghề nghiệp là nhân tố môi trường có ảnh hưởng đến việc lạm dụng rượu,
từ đó làm phát sinh nghiện rượu rồi dẫn đến rối loạn tâm thần do rượu. Như
vậy nghiện rượu đã có ảnh hưởng lớn đến nghề nghiệp của bệnh nhân và làm giảm
thu nhập cá nhân.
4.1.4. Đặc điểm về lứa tuổi
Nghiên cứu cho thấy lứa tuổi có tỷ lệ cao nhất
(50%) là từ 41- 50 tuổi, tiếp đến là lứa tuổi từ 31- 40 (30,4%), lứa tuổi từ 51- 60 chiếm 13% và chỉ có 4,4% là từ 30
tuổi trở xuống. Tuổi cao nhất là 67 tuổi, thấp nhất là 29 tuổi. Tuổi trung bình
của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu là 43,7 ± 7,3 tuổi. Sự khác biệt giữa các
nhóm số liệu là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Kết quả nghiên cứu
này là phù hợp với những nhận xét của một số tác giả đã nghiên cứu về sảng
rượu. Nghiên cứu của Hoàng Văn Trọng (2004) cho thấy bệnh nhân sảng rượu có
tuổi trung bình là 42,28 ± 8,68 tuổi [9]. Nguyễn Mạnh Hùng (2008) nhận thấy tuổi trung
bình của bệnh nhân sảng rượu là 41,74 ± 6,69 tuổi. Nghiên cứu bệnh nhân sảng rượu Dvirski
A.A.(1999) thấy tuổi trung bình của bệnh nhân sảng rượu ở nữ giới là 43,2 tuổi
và ở nam giới là 42 tuổi [15]. Tác giả Levy P.S.
(1996) thấy rằng rất hiếm gặp bệnh nhân sảng rượu ở tuổi trước 30 [20].
4.1.5. Thời gian nghiện rượu
Kết quả nghiên cứu cho
thấy phần lớn bệnh nhân có thời gian nghiện rượu là trên 10 năm với 27 trường
hợp chiếm tỷ lệ 58,7%. Rất ít trường hợp có thời gian nghiên rượu < 5 năm
(4,4%). Thời gian nghiện rượu trung bình của nhóm nghiên cứu là 12,7 ± 4,4 năm.
Nhiều
nghiên cứu nhận thấy sảng rượu thường gặp ở những bệnh nhân có thời gian nghiện
rượu trên 10 năm. Nghiên cứu của P. Hardy; O. Keureis (1994) cho thấy sảng rượu
thường xảy ra ở những người nghiện rượu mãn trên 10 năm [20]. Nghiên cứu của
Nguyễn Viết Thiêm (1994) thấy thời gian nghiện rượu của bệnh nhân dưới 10 năm
chiếm tỷ lệ 12,5%; từ 10-15 năm chiếm 64,5% và nghiện rượu từ 16-20 năm là 15%
các trường hợp [6]. Nghiên cứu
của Quách Văn Ngư (1998) cho thấy bệnh
nhân sảng rượu có thời gian nghiện rượu từ 5-9 năm chiếm tỷ lệ 22,7%, từ 10-15
năm là 41%, từ 16-20 năm là 36,4% [5]. Như vậy, kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với nhận định của các tác giả trên.
4.1.6. Số lượng rượu uống hàng ngày
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 31 bệnh nhân (chiếm tỷ lệ
67,4%) sử dụng rượu ở mức dưới 1000ml mỗi ngày, số bệnh nhân sử dụng lượng rượu
trên 1000ml mỗi ngày chỉ có 32,6%.
Như vậy, số lượng rượu tiêu thụ mỗi ngày của nhóm bệnh nhân nghiên cứu thấy
thấp hơn so với một số nghiên cứu của nước ngoài. Nghiên cứu của P. Hardy; O.
Keureis (1994) bệnh nhân sảng rượu thường uống quãng 2 lít rượu mạnh mỗi ngày,
đôi khi thậm chí tới 4 lít mỗi ngày. Theo các tác giả Weichmann J.; Bientz M.
(1989) bệnh nhân sảng rượu thường uống trên 100g rượu mạnh mỗi ngày.
Đa
số loại rượu mà bệnh nhân sử dụng là rượu nấu thủ công từ nguyên liệu gạo, sắn,
ngô.... với nồng độ cồn thường vào khoảng 30 – 450 .
4.2.
Đặc điểm lâm sàng
4.2.1. Thể lâm sàng của sảng rượu
Biểu đồ 3.2 cho thấy có 16 trường hợp
chiếm tỷ lệ 34,8% có biến chứng với cơn co giật toàn thể, thường xuất hiện sau
khi ngừng uống rượu hoặc bệnh nhân uống với số lượng rượu ít hơn hiều so với
mọi ngày. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2008)
nhận thấy co giật ở bệnh nhân chiếm đến 30,9% [3].
Trong nghiên cứu của Florim Cuculi & CS (2006) có 30,30% sảng rượu bị co
giật.
Một số nghiên cứu khác thấy tỷ lệ hiện
mắc co giật có thể cao hơn ở những bệnh nhân có bệnh lý khác đi kèm với sảng
rượu như nhiễm trùng, nhiễm độc. Ở bệnh nhân sảng rượu, khi xảy ra cơn động
kinh toàn thể làm bệnh nhân bị ngã gây ra một số tổn thương trên cơ thể, có thể
nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
4.2.2. Các triệu chứng về ý thức
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 100% bệnh
nhân sảng rượu có rối loạn năng lực định hướng, trong đó: RLĐH về thời gian gặp
nhiều nhất (73,9%), tiếp đến là RLĐH về không gian (67,4%), RLĐH môi trường
xung quanh (58,7%), RLĐH bản thân ít gặp nhất (26,1%).
Tuy nhiên kết quả này thấp hơn so với
nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2008) thấy: RLĐH không gian 99,1%, RLĐH thời gian 95,5%, RLĐH môi trường 94,6%.
Trong
nhóm bệnh nhân nghiên cứu, 50% số trường hợp sảng rượu có rối loạn ý thức xuất
hiện cả ngày, và 21,7% chỉ xuất hiện về chiều, tối. Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn
ý thức chỉ xuất hiện về trưa và sáng là thấp (17,4% và 10,9%). Khác biệt giữa
các nhóm số liệu là có ý nghĩa (p < 0,05).
4.2.3. Các triệu
chứng rối loạn cảm xúc
Kết quả bảng 3.7 cho thấy: triệu chứng khí sắc
tăng là hay gặp nhất ở bệnh nhân sảng rượu, chiếm tỷ lệ 41,3% và thường gặp ở
những bệnh nhân có biểu hiện kích động, hoang tưởng tự cao. Tiếp đến là các
biểu hiện cảm xúc không ổn định gặp ở 14 trường hợp (30,4%); lo âu, hoảng sợ
(10,8%); khí sắc giảm (8,7%).
Nhận
định trên so với một số nghiên của các tác giả khác có sự khác biệt. Nguyễn
Mạnh Hùng (2008), triệu chứng rối loạn cảm xúc của bệnh nhân: cảm xúc không ổn
định (73,4%), trầm cảm (28,3%), loạn cảm (24,7%), hưng cảm (17,6%) và vô cảm
(2,6%). Triệu chứng rối loạn lo âu như lo lắng (76,9%), hoảng sợ (66,3%), ác
mộng (24,7%), ám ảnh xung động (18,5%) [3]. Nghiên cứu của Phạm Văn Tiếng
(2011) nhận thấy bệnh nhân sảng rượu có cảm xúc không ổn định (72,5%) cao nhất,
trầm cảm (12,5%), hưng cảm (10,0%), loạn cảm (7,5%), vô cảm (2,5%) [7].
Nghiên cứu của Lý Trần Tình (2006) ở
bệnh nhân loạn thần do rượu thấy 67,1% tổng số bệnh nhân có rối loạn cảm xúc,
trong đó 100% bệnh nhân có rối loạn trầm cảm, 41,7% bệnh nhân có rối loạn lo
âu, 40,6% bệnh nhân có rối loạn hoảng sợ. Riêng với sảng rượu tác giả thấy 75%
có rối loạn hoảng sợ, 41,7% có lo âu [8].
Các rối loạn cảm xúc là một trong
những nguyên nhân thường dẫn đến những nghiện rượu thứ phát. Những rối loạn
cảm xúc có liên quan nhiều nhất dẫn đến nghiện rượu thứ phát đó là: rối loạn lo
âu, cơn hoảng sợ, trầm cảm… Ban đầu với liều thấp, rượu có tác dụng giải lo âu,
gây hưng phấn, gây ngủ nhưng khi lạm dụng rượu với số lượng nhiều, kéo dài thì
rượu lại làm tăng thêm lo âu và làm trầm trọng thêm các rối loạn cảm xúc ban
đầu [13],[16]. Ngược lại, nghiện rượu cũng có thể là nguyên nhân làm khởi phát hoặc làm
nặng nề thêm các rối loạn cảm xúc. Nghiên cứu của các tác giả Kushner M.G.;
Abrams K.; Borchardt C. (2000) về mối liên quan giữa lo âu và nghiện rượu cho
thấy một trong hai yếu tố này cả lo âu và nghiện rượu đều có thể là nguyên nhân
làm khởi phát, duy trì và làm nặng nề thêm yếu tố còn lại [19].
4.2.4. Các triệu chứng rối loạn tri giác
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy phần lớn bệnh nhân sảng rượu có ảo giác thị giác (65,2%), tiếp đến là ảo
giác thính giác (44,4%) và ảo giác xúc giác (30,4). Chỉ có 02 trường hợp chiếm
(4,3%) có ảo giác vị giác và không có trường hợp nào có ảo giác khứu giác.
Nghiên cứu của Hoàng Văn Trọng (2004) thấy
bệnh nhân có ảo thị (60,3%), ảo giác xúc giác (58,9%) và ảo thanh (20,5%) [9]. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), bệnh
nhân có ảo thị (76,9%), ảo xúc (58,4%), ảo thính (44,2%), loạn cảm giác bản thể
(32,7%) [3]. Như vậy kết quả của chúng tôi
thấy bệnh nhân sảng rượu có tỷ lệ ảo giác thị giác là tương tự nhưng tỷ lệ có
ảo thanh là cao hơn và tỷ lệ có ảo giác xúc giác là ít hơn.
Trong 30 trường hợp sảng rượu có ảo thị thấy đa số là bệnh nhân nhìn
thấy các con vật nhỏ bê như sâu, bọ, rắn rết, chuột, mèo (68,3%) hoặc nhìn thấy
người lạ, trộm vào nhà (21,4%).
Nghiên cứu ở 14 bệnh nhân có ảo giác xúc giác thấy bệnh nhân thường
có cảm giác có côn trùng, sâu bọ bò trên da của mình (71,5%), hoặc thấy có dây
rợ, mạng nhện,… vướng,
bám ở trên người (16,7%).
Ở nhóm 20 bệnh nhân có ảo thanh thì
thường là ảo thanh xui khiến, đe dọa bệnh nhân hoặc tiếng người gọi bệnh nhân.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 20 bệnh nhân sảng rượu chỉ có 1 loại ảo
giác đơn thuần chiếm tỷ lệ cao nhất 56,5%, tiếp đến là 43,5% số bệnh nhân có 2
loại ảo giác cùng tồn tại trong một bệnh cảnh lâm sàng. Không có trường hợp nào
có từ 3 ảo giác cùng tồn tại trở lên hoặc không có ảo giác nào Khác biệt giữa
các nhóm số liệu là có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Thời
gian xuất hiện của ảo giác thường là cả ngày (60,9%), chỉ có ít các trường hợp
xuất hiện ảo giác từng đợt trong ngày.
Về
sự chi phối của ảo giác ở bệnh nhân sảng rượu thường thấy là chi phối hành vi của
bệnh nhân (suổi bắt các côn con trùng bò trên người, đánh bắt rắn rết,....)
hoặc chi phối cảm xúc (lo lắng, hoảng sợ,....).
4.2.5. Các triệu chứng rối loạn tư duy
Về hình thức tư duy: kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cho thấy các rối loạn hình thức tư duy chủ yếu là tư duy rời rạc (71,7%), nói nhiều
(58,7%), tư duy chậm 30,97%, tư duy lai nhai 8,85%, nói một mình 7,08%, nói
nhảm ().
Về nội dung tư duy: trong nghiên cứu, hoang tưởng
bị hại có tỷ lệ cao nhất (56,5%), tiếp đến là hoang tưởng tự cao (8,7%). Hoang
tưởng khác như ghen tuông, liên hệ,.... là ít gặp trong nhóm bệnh nhân sảng
rượu. Có 9 trường hợp chiếm tỷ lệ 19,6% là không có hoang tưởng. Kết quả này có sự khác biệt so với nghiên cứu
của Nguyễn Mạnh Hùng (2008): hoang tưởng bị hại và hoang tưởng ghen tuông là
những hoang tưởng có tỷ lệ cao nhất (61,95% và 16,81%), hoang tưởng bị theo dõi
và hoang tưởng bị đầu độc cùng có tỷ lệ 4,42%, hoang tưởng tự cao 3,54% [3].
Nghiên cứu về sự phân bố
hoang tưởng và ảo giác ở bệnh nhân sảng rượu, kết quả cho thấy số trường hợp có
hoang tưởng kết hợp với ảo giác chiếm tỷ lệ cao
(80,4%); ảo giác đơn thuần: 19,6%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2009) nhận
thấy bệnh nhân có hoang tưởng kết hợp với ảo giác gặp ở 62,8% số trường hợp, ảo giác đơn thuần: 26,5%,
không có ảo giác và không có hoang tưởng: 7,1%; hoang tưởng đơn thuần: 3,5%.
Trong nhóm bệnh nhân sảng rượu, các hoang tưởng thường xuất
hiện không liên tục, rời rạc, thời gian tồn tại ngắn trong một vài ngày đến 1
tuần, chủ yếu trong giai đoạn rối loạn ý thức. Những hoang tưởng này kết với ảo
giác có tác động mạnh đến các mặt hoạt động tâm thần khác và chi phối mãnh liệt
tới hành vi, cảm xúc của bệnh nhân.
4.2.6. Các triệu chứng về rối loạn thần kinh thực vật
Kết quả ở biểu đồ 3.4 cho thấy 100% số bệnh nhân sảng rượu có triệu
chứng run, phần lớn là run ở tay, đi lạng choạng (86,9%), còn lại là biểu hiện
run ở mi mắt, miệng môi, lưỡi. Các triệu chứng khác như toát mồ hôi (91,3%), mạch
nhanh (45,6%), huyết áp tăng (39,1%), nhịp thở nhanh (19,6%), buồn nôn-nôn
(13%). Trong đó có 4 trường hợp chiếm tỷ lệ 8,7% có tiền sử tăng huyết áp. Sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Nhận định trên cũng phù hợp với nghiên
cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2008) thấy 100% bệnh nhân có run, toát mồ hôi (100%),
mạch nhanh (58,4%), buồn nôn, nôn, huyết áp tăng (2,6 - 28,3%), huyết áp dao
động (2,5%); nghiên cứu của Phạm Văn Tiếng (2011) bệnh nhân run (100%), toát mồ
hôi (100%), bồn chồn (52,5%), huyết áp tăng (37,5%), buồn nôn (25%), nôn (15%),
thở nhanh (15%), loạng choạng (10%), huyết áp dao động (2,5%) [7].
4.2.7. Các triệu chứng về cơ thể
Trong sảng rượu, các triệu chứng cơ
thể cũng thường xuyên xuất hiện. 100% số bệnh nhân có biểu hiện mất ngủ, 54,3%
có biểu hiện tăng trương lực cơ, cơn gồng cứng người và tay chân. Cảm giác thèm
rượu gặp ở 22 bệnh nhân (chiếm 47,8%), cảm giác mệt mỏi khó ở (41,3%), đâu đầu
(34,8%).
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu
của Nguyễn Mạnh Hùng (2008): 100% mất ngủ, 77,8% chán ăn, 69,0% có mệt mỏi,
43,4% thèm rượu, và 54,8% đau đầu [3].
4.2.8. Các triệu chứng rối loạn hành vi
Nghiên cứu về các triệu chứng rối loạn
hành vi ở bệnh nhân sảng rượu thấy 100% các trường hợp đều có rối loạn, nguyên
nhân là do ảo giác và/hoặc hoang tưởng chi phối. Thường biểu hiện bằng hành vi
chạy trốn, nấp do lo sợ có người đuổi bắt, làm hại, giết hại mình (56,5%). Bệnh
nhân kích động, vật vã la hét, tấn công, đập phá đồ đạc cũng thường gặp (45,6%). Khi bệnh nhân có ảo giác thị giác và
ảo giác xúc giác thấy sâu bọ ở trên người bệnh nhân hoặc ở xung quanh thì có
hành vi bắt suổi, giết sâu bọ (32,6%). Một số trường hợp đem không ngủ, dậy lần
sờ đồ đạc (26%). Rất hiếm trường hợp có hành vi tự sát (4,3%).
Kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2008) nhận thấy các triệu chứng như: kích
động (60,1%), tăng vận động (39,8%), giảm vận động (22,1%), không ăn (20,3%),
cơn xung động (15,0%), hành vi tự sát (9,7%) [3]. Nghiên cứu của Phạm Văn Tiếng
(2011) nhận thấy triệu chứng kích động (77,5%), tăng vận động (40,0%), từ chối
ăn (20,00%), cơn xung động (15,0%), hành vi tự sát xảy, căng trương lực, rối
loạn bản năng tình dục đều chiếm (2,50%) [7].
4.2.9. Các bệnh cơ thể kèm theo
Bảng 3.18 cho thấy phần lớn các trường
hợp đều có bệnh cơ thể mạn tính kèm theo. Do bệnh nhân nghiện rượu nên thường
có bệnh lý gan mật (32,6%) như gan nhiễm mỡ, viêm gan, xơ gan. Các trường hợp
khác có bệnh lý dạ dày ruột như viêm loét dạ dày, viêm đại tràng, hội chứng
ruột kích thích (6,5%); bệnh lý tim mạch như tăng huyết áp (8,7%); tiểu đường
(4,3%); bệnh Gout (4,3%).
Theo Trần Viết Nghị (1994), trong số
bệnh nhân loạn thần do rượu điều trị tại Viện sức khỏe Tâm thần từ 1990- 1994
có 35,5% bị viêm gan và xơ gan và 6,5% bị loét dạ dày [4]. Kết
quả nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2008)
cho thấy có một tỷ lệ đáng kể các bệnh cơ thể kết hợp. Bệnh cơ thể kết
hợp có tỷ lệ cao nhất là những bệnh lý ở hệ thống da niêm mạc 34,5%, tiếp đến
là những bệnh lý ở hệ cơ- xương- khớp 24,7%, bệnh gan- mật 20,3%, bệnh dạ dày-
tá tràng 11,5%, bệnh tim mạch 10,6%, bệnh hệ thống thần kinh 7,9%, bệnh nội
tiết 5,3% [3].
4.3.
Các yếu tố liên quan đến sảng rượu của nhóm nghiên cứu:
4.3.1. Các yếu tố khởi phát sảng rượu
Bảng 3.19 cho thấy,
phần lớn yếu tố khởi phát sảng rượu là ngừng uống rượu (24 trường hợp chiếm
52,2%) có thể do bệnh nhân tự ngừng rượu hoạc do gia đình cấm không cho sử
dụng. Có 5 trường hợp (10,9%) bị mắc bệnh cơ thể (xơ gan, bệnh Gout, chấn
thương do tai nạn) phải vào nhập viện để điều trị nên không sử dụng được rượu.
Số bệnh nhân tự giảm số lượng rượu sử dụng là 23,9% và có đến 13 % là do uống
với số lượng rượu lớn so với mọi ngày dẫn đến sảng rượu.
Nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Hùng (2008) nhận
thấy hầu hết bệnh nhân khởi phát sảng rượu do uống giảm liều rượu so với trước
đó (37,17%) hoặc mắc bệnh cơ thể nào đó dẫn đến không có cơ hội tiếp tục uống
rượu (36,28%) đã làm xuất hiện sảng rượu chiếm cao nhất [3].
4.3.2. Thời gian và tính chất xuất hiện sảng rượu
Nghiên cứu về thời gian xuất hiện sảng
rượu, kết quả cho thấy phần lớn (52,2%) là sảng rượu xuất hiện sau 48h ngừng sử
dụng rượu hoặc giảm số lượng rượu. Có 16 trường hợp (34,8%) xuất hiện trong
khoảng 24 – 48h. Chỉ có 13% xuất hiện trong 24h, thường liên quan với những
bệnh nhân uống với số lượng rượu lớn trong ngày.
Về tính chất xuất hiện sảng rượu, có
56,5% trường hợp có các triệu chứng xuất hiện từ từ, còn lại các trường hợp
xuất hiện từ từ và bán cấp đều chiếm 21,7%.
Kết quả nghiên cứu của Holbrook
& CS (1999), Asplund & CS (2004), sảng rượu có thể xuất hiện cách lần
uống rượu cuối cùng khoảng 2-4 ngày. Nguyễn Mạnh Hùng (2008) nhận định rằng
38,05% số bệnh nhân đột ngột xuất hiện sảng rượu và 61,06% số bệnh nhân xuất
hiện sảng rượu từ từ [3].
4.3.3. Yếu tố tiền sử
Theo bảng 3.22, phần lớn số bệnh nhân
nghiên cứu đã từng phải nhập viện vì các rối loạn tâm thần và hành vi do sử
dụng rượu (rối loạn loạn thần do rượu, tạng thái cai rượu, sảng rượu), trong đó
vào viện 1-2 lần là 37%, vào viện từ 3 lần trở lên chiếm 19,5%. Có 20 trường
hợp (43,5%) chưa vào viện điều trị lần nào, thường là bệnh nhân trẻ tuổi.
Về tiền sử gia đình: 9 trường hợp
chiếm tỷ lệ 19,6% có người thân bị nghiện rượu (19,6%) thường là bố, anh em
trai; 4 trường hợp bị rối loạn tâm thần khác (8,7%) như tâm thần phân liệt,
chậm phát triển tâm thần…
Một số nghiên cứu cho thấy nghiện rượu là một
chứng bệnh lưu truyền trong gia đình. Một phần là do con cái bị ảnh hưởng trực
tiếp từ nếp sống, sinh hoạt và cách giáo dục của bố mẹ. Phần khác là do tính di
truyền của bệnh điều này cũng đã được chứng minh qua các nghiên cứu về trẻ
sinh đôi và con nuôi ở những gia đình có bố mẹ nghiện rượu [17]. Nghiên cứu
của Dust Ph.; Soayka M. (1990) về tiền sử gia đình ở bệnh nhân loạn thần do
rượu nhận thấy 56,1% số bệnh nhân tiền sử gia đình có vấn đề trong đó 2,4% có
mẹ nghiện rượu, 22% có bố nghiện rượu, 14,6% anh em nghiện rượu và 22% có họ
hàng cấp 1 và cấp 2 nghiện rượu [14].
4.4.
Nhận xét quá trình điều trị
4.4.1. Các thuốc điều trị
Trong
nghiên cứu của chúng tôi, 100% số bệnh nhân sảng rượu được sử dụng thuốc
Diazepam dạng tiêm bắp hoặc dạng uống với liều trung bình 16,2 ± 3,5
mg/ngày; 100% bệnh nhân được dùng Vitamin B1 với liều 340,5 ± 32,6 mg/ngày. Các thuốc
chống loạn thần thường được sử dụng là: Haloperidol (86,9%) với liều trung bình
13,7 ± 2,1 mg/ngày, Risperidon (8,7%) liều 4,1 ± 1,5 mg/ngày. Thuốc chỉnh khí sắc Valproat
được sử dụng ở 67,4% số trường hợp (738 ±
58,3 mg/ngày).
Nghiên cứu của Phạm Văn Tiếng (2011): tổng liều diazepam dùng cho mỗi
bệnh nhân 70mg - 170mg, tổng liều trung bình là 108 ± 18,105 mg và liều
diazepam dùng cao nhất cho mỗi bệnh nhân là 30mg/ngày [7].
3.4.2. Thời gian điều trị
Bảng
3.26 cho thấy thời gian điều trị trung bình của nhóm bệnh nhân sảng rượu là 14,4 ±
1,9 ngày, ngắn nhất là 3 ngày, dài nhất là 50 ngày.
Mehta
& CS (2004), hầu hết sảng rượu dùng diazepam hoặc chlordiazepoxid sẽ khỏi
sau 3-5 ngày điều trị. Christopher Pelic và Hugh Myrick (2003), bệnh nhân sảng
rượu khỏi trong vòng 4 ngày điều trị.
Nghiên cứu của Quách Văn Ngư (1998) ở
bệnh nhân sảng rượu thấy: thời gian tồn tại từ 1 - 3 ngày có tỷ lệ 77,3%, từ 4 -
7 ngày là 18,2%, trên 7 ngày là 4,5%, sảng rượu có thuyên giảm nhanh là 77,3%,
thuyên giảm từ từ là 22,7% [5]. Tác giả Bùi Quang
Huy (2008) nhận xét: sảng rượu cấp thường tiến triển trong 3- 4 ngày, sau đó
bệnh nhân đi vào giấc ngủ sâu và khi tỉnh dậy thì các triệu chứng loạn thần
thuyên giảm gần hết [15]. Theo tác giả Soussan P.L (1996) sảng rượu tiến triển
trong khoảng từ 2- 4 ngày sau đó thì hết.
4.4.3. Tính chất
thuyên giảm
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số
bệnh nhân sảng rượu được điều trị tích cực ngay từ khi vào viện nên các triệu
chứng thuyên giảm nhanh (56,5%), 18 trường hợp chiếm 39,2% thuyên giảm từ từ.
Trong nghiên cứu của Quách Văn Ngư
(1998) thấy bệnh nhân sảng rượu có thuyên giảm nhanh là 77,3%, thuyên giảm từ
từ là 22,7% [5].
Chương 5
KẾT LUẬN
Từ những kết quả nghiên cứu trên 46
bệnh nhân được chẩn đoán xác định là sảng rượu (F10.4), điều trị nội trú tại Bệnh
viện Bảo vệ sức khỏe tâm thần Quảng Ninh từ tháng 4/2013 đến tháng 10/2013,
chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. Đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân sảng rượu:
- 100% số bệnh nhân là nam giới, không có bệnh nhân nào là nữ.
- Về
lứa tuổi: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
trong nghiên cứu là 43,7 ± 7,3 tuổi.
- Thời gian
nghiện rượu trung bình của nhóm nghiên cứu là 12,7 ± 4,4 năm.
- Lượng rượu bệnh nhân uống mỗi ngày khoảng 500 -
1000ml, đa số là loại rượu nấu thủ công.
- Thể lâm sàng của sảng rượu: 34,8% có
biến chứng với cơn co giật toàn thể.
- Rối loạn ý
thức: 100% bệnh nhân sảng rượu có rối loạn năng lực định hướng, trong đó: RLĐH
về thời gian gặp nhiều nhất (73,9%), tiếp đến là RLĐH về không gian (67,4%),
RLĐH môi trường xung quanh (58,7%), RLĐH bản thân ít gặp nhất (26,1%). Thường
rối loạn ý thức là cả ngày, nặng lên về chiều tối.
- Các
triệu chứng rối loạn cảm xúc: triệu chứng khí sắc tăng (41,3), cảm xúc không ổn định (30,4%); lo âu,
hoảng sợ (10,8%); khí sắc giảm (8,7%).
- Rối
loạn tri giác:
+ Loại ảo giác:
phần lớn bệnh nhân sảng rượu có ảo giác thị giác (65,2%) nhìn thấy các con vật
nhỏ bê như sâu, bọ, rắn rết, chuột, mèo hoặc nhìn thấy người lạ, trộm vào nhà. Ảo
giác thính giác (44,4%)
thường là ảo thanh xui
khiến, đe dọa bệnh nhân hoặc tiếng người gọi bệnh nhân. Ảo giác xúc giác (30,4): có côn trùng, sâu bọ bò trên da của mình
(71,5%), hoặc thấy có dây rợ, mạng nhện,… vướng, bám ở trên người
+ Có 1 loại ảo giác đơn thuần chiếm tỷ lệ cao nhất 56,5%, tiếp đến là 43,5%
số bệnh nhân có 2 loại ảo giác cùng tồn tại trong một bệnh cảnh lâm sàng.
+ Thời gian xuất hiện của ảo giác thường là cả
ngày (60,9%), chỉ có ít các trường hợp xuất hiện ảo giác từng đợt trong ngày.
+ Về sự chi phối của ảo giác ở bệnh nhân sảng
rượu thường thấy là chi phối hành vi của bệnh nhân (suổi bắt các côn con trùng
bò trên người, đánh bắt rắn rết,....) hoặc chi phối cảm xúc (lo lắng, hoảng
sợ,....).
- Các triệu chứng rối loạn tư duy:
+ Về hình thức tư duy: tư duy rời rạc
(71,7%), nói nhiều (58,7%), tư duy chậm 30,97%, tư duy lai nhai 8,85%, nói một
mình 7,08%, nói nhảm.
+ Về nội dung tư duy: hoang tưởng bị hại có tỷ lệ cao nhất (56,5%), tiếp
đến là hoang tưởng tự cao (8,7%). Hoang tưởng khác như ghen tuông, liên hệ,....
là ít gặp trong nhóm bệnh nhân sảng rượu.
+ Sự phân bố hoang tưởng và
ảo giác ở bệnh nhân sảng rượu: hoang tưởng kết hợp với
ảo giác chiếm tỷ lệ cao (80,4%); ảo giác đơn thuần: 19,6%.
- Các
triệu chứng về rối loạn thần kinh thực vật: run (100%) phần lớn là run
ở tay, đi lạng choạng, run ở mi mắt, miệng môi, lưỡi; toát mồ hôi (91,3%), mạch
nhanh (45,6%), huyết áp tăng (39,1%), nhịp thở nhanh (19,6%), buồn nôn-nôn
(13%).
- Các
triệu chứng về cơ thể: mất ngủ (100%), tăng trương lực cơ (54,3%), thèm
rượu (47,8%), cảm giác mệt mỏi khó ở (41,3%), đâu đầu (34,8%).
- Các triệu
chứng rối loạn hành vi
+ Do ảo giác
và/hoặc hoang tưởng chi phối.
+ Thường biểu hiện
bằng hành vi chạy trốn, nấp do lo sợ có người đuổi bắt, làm hại, giết hại mình
(56,5%); kích động, vật vã la hét, tấn công, đập phá đồ (45,6%); bắt suổi, giết
sâu bọ (32,6%); lần sờ đồ đạc (26%).
- Các bệnh cơ
thể kèm theo: Bệnh cơ thể mạn tính kèm theo như
bệnh lý gan mật (32,6%), bệnh lý dạ dày ruột (6,5%); bệnh lý tim mạch như tăng
huyết áp (8,7%); tiểu đường (4,3%); bệnh Gout (4,3%).
2. Các
yếu tố liên quan đến sảng rượu của nhóm nghiên cứu:
- Các yếu tố
khởi phát sảng rượu: thường là ngừng uống
rượu (52,2%), mắc bệnh cơ thể phải vào nhập viện để điều trị (10,9%), tự giảm
số lượng rượu (23,9%), tăng số lượng rượu (13 %).
- Thời gian và
tính chất xuất hiện sảng rượu: 52,2% sảng rượu
xuất hiện sau 48h ngừng sử dụng rượu hoặc giảm số lượng rượu; 34,8% xuất hiện
trong khoảng 24 – 48h; 13% xuất hiện trong 24h. Trong đó 56,5% các triệu
chứng xuất hiện từ từ; 21,7% cấp tính và 21,7% bán cấp.
- Yếu tố tiền sử:
+ Tiền sử bản
thân: 37% bệnh nhân đã vào viện 1-2 lần, 19,5% vào viện từ 3 lần trở.
+ Tiền sử gia đình:
19,6% có người thân bị nghiện rượu (19,6%) thường là bố, anh em trai; 4 trường
hợp bị rối loạn tâm thần khác (8,7%).
3. Nhận
xét quá trình điều trị
- Các thuốc điều trị:
+ 100% dùng Diazepam với liều trung bình 16,2 ±
3,5 mg/ngày; Vitamin B1 với liều 340,5 ± 32,6 mg/ngày.
+ Haloperidol
(86,9%) với liều trung bình 13,7 ± 2,1 mg/ngày, Risperidon (8,7%) liều 4,1 ± 1,5 mg/ngày.
+ Valproat (67,4%) với liều 738 ±
58,3 mg/ngày.
- Thời gian điều trị: thời gian điều trị trung bình là 14,4 ±
1,9 ngày.
- Tính chất
thuyên giảm: các triệu chứng thuyên giảm nhanh
(56,5%), thuyên giảm từ từ (39,2%).
I LIỆU THAM KHẢO
A. Tiếng Việt
1. Học viện Quân Y (2007), “Nghiện rượu và rối
loạn tâm thần do rượu”. Tr 93-102.
2. Đại học Y Hà Nội (2005), “Phương pháp nghiên
cứu khoa học trong y học và sức khỏe cộng đồng”.
3.
Nguyễn Mạnh Hùng (2008), “Nghiên
cứu đặc điểm lâm sàng và biến đổi một số chỉ số cận lâm sàng ở bệnh nhân sảng
rượu”. Tr 100.
4.
Trần Viết Nghị,
Nguyễn Doãn Phương, Nguyễn Thị Lan và cs (1994),
"Sơ bộ nhận xét lâm sàng loạn thần do lạm dụng rượu", Kỷ yếu công
trình nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng lạm dụng rượu, Bộ Y tế, Viện sức khỏe Tâm thần, Hà Nội. Tr. 95-100.
5.
Quách Văn Ngư (1998), “Đặc điểm lâm sàng và điều kiện phát sinh sảng rượu ở người nghiện rượu
mãn tính”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Y Hà Nội.
6.
Nguyễn Viết Thiêm, Chử Văn Tân (1994), “Nhận xét đặc điểm lâm sàng 8 trường hợp sảng rượu điều trị tại Viện
sức khoẻ tâm thần”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu dịch tễ, lâm sàng lạm dụng
rượu, Bộ Y tế, Viện sức khỏe Tâm thần, Hà Nội. Tr. 88- 94.
7.
Phạm Văn Tiếng (2011), “Nhận xét kết quả điều trị sảng rượu bằng
Diazepam tại Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2”.
8.
Lý Trần Tình (2006), “Đặc điểm lâm sàng rối loạn cảm xúc ở bệnh
nhân loạn thần do rượu”, Luận văn chuyên khoa cấp II, Đại học Y Hà Nội, Hà
Nội.
9.
Hoàng Văn Trọng (2004), Đặc điểm các hình thái lâm sàng loạn thần do rượu tại Viện sức khoẻ tâm
thần, Luận văn thạc sỹ, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội.
10.
Nguyễn Minh Tuấn (2011), “Chẩn đoán và
điều trị trạng thái lệ thuộc”.
11.
Tổ chức Y tế Thế giới (1993), “Phân loại các rối loạn tâm thần và hành vi
– Tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu – ICD 20”. Tr 67 – 83.
12.
Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (2009),
“Đánh giá tình trạng lạm dụng bia rượu
tại Việt Nam”. Tr 1 – 20.
B. Tiếng nước ngoài
13. Cheng A.T., Gau S.F., Chen T.H. et al (2004), “A 4 year longitudinal study on risk
factor for alcoholism”, Arch Gen
Psychiatry, 61(2). P. 184- 191.
14. Dust Ph., Soayka M. (1990), “Les hallucinoses alcooliques une
contribution à l/etrologie au traitment”, Actualities phsychiatriques, 8, P. 47- 57.
15.
Dvirski
A.A. (1999),
“The role of genetic fartor in the manifestation of delerium trements”, Zh Nevrol Psikhiatr Im S S Korsakova,
99(10),
P. 48- 50.
16.
Faingold C.L., Knapp D.J., Chester J.A., Gonzalez L.P. (2004),
“Integrative neurobiology of the alcohol withdrawal syndrome from anxiety to
seizues”, Alcohol Clin Exp Res, 28
(2), P.268-278.
17. Gorwood Ph. (1995), “Genetique et alcoolo- dependence”, Neuro- psycho, No 4, Avril, P. 170-176.
18.
Kaplan
H. I and Sadock B.J (2005), "Alcohol - Related
disorders",Concise Textbook of Clinlcal Psychiatry. Second edition: P.
80-92.
19.
Kushner M.G., Abrams K. Borchardt C. (2000), “The relationship
between anxiety disorders and alcohol use disorders: a review of major perspectives
and findings”, Clin-Psychol-Rev,
20(2), P. 149 – 171.
20. Levy P.S. (1996),
“Conduites alcooliques: Alcoolisme”, Psychiatrie,
Collection, Med line- ESTEM, P. 281- 306.